Nhà thơ, nhà nghiên cứu Inrasara đã đánh giá rất cao công trỉnh "Có 500 Năm Như Thế" của Hồ Trung Tú |
- Đại diện cho các ông các bà tham dự bữa tiệc hôm nay tôi xin có đôi lời: Bữa tiệc này là bữa tiệc mừng gia chủ sinh được một con trai. Tôi thấy các món ăn bày biện ở đây rất ngon, vậy chúng tôi được mới đến là để ăn! Còn như mừng cháu trai thì không dám mừng, vì lỡ như ngày sau lớn lên, nó làm điều bất lương hại nước, hại dân thì mừng sao được!!!...
Gia chủ đứng cạnh vâng vâng, dạ dạ chứ không dám phản ứng gì cả. Gia chủ là anh Thiệp, vừa ra tù do Diệm bắt, về sau làm dân biểu quốc hội ở Sài Gòn, nay định cư ở Hoa Kỳ.
Chưa hết, trước khi chia tay cụ Thái lại đứng lên cảm ơn:
- Bữa tiệc ngon quá! Chúng tôi rất cảm ơn gia chủ và chúc gia chủ... sang năm cũng lại sinh con trai nữa để chúng tôi lại được mời ăn!”. (hết trích)
Thật hết biết. Chuyện cụ Ông Ích Khiêm mời các quan trong huyện đến ăn tiệc rồi mắng người nhà khi gọi nước mấy lần không bưng lên: “Mả cha bọn bây, cứ vục mặt vô ăn mà không lo chi đến nước!”. Ở đây, bữa tiệc đầy tháng này không có lý do gì để mắng ai cả, hay cụ muốn nói kháy vị quận trưởng Điện Bàn cũng có mặt trong buổi tiệc? Nhưng nếu vậy thì tội cho gia chủ, tội cho cả đứa bé nữa chứ. Cụ Thái rõ ràng là người có học, có chữ thế nhưng cái tính cách khi đã nghĩ trong đầu thì phải nói ra đằng miệng cho bằng được này thì rất rõ nét tính cách đặc trưng của người Quảng Nam.
*
Đã nhiều người bàn về tính hay cãi của người Quảng Nam, lý giải được nhiều người nghĩ đến có thể quy vào ba nguyên nhân chính:
1/ Đây là nơi có môi trường sống không dễ dàng, thậm chí khắc nghiệt, mùa hè thì nóng bức, mùa mưa thì bão lụt, con người phải mạnh mẽ lắm mới tồn tại được, lâu ngày thành thói quen, nên có tính cách mạnh mẽ, dữ dội.
2/ Đây là nơi lưu đày các tội đồ của triều đình, là nơi tụ hội của dân tứ chiến, đầu trộm đuôi cướp. Chính cái tính cách mạnh mẽ dữ dội của họ đã truyền lại cho con cháu mà thành nên tính cách quyết liệt của người Quảng hôm nay.
3/ Đất này người Chăm từng sống, mà trong lịch sử người Chăm được Sử ký toàn thư ghi lại là họ luôn cướp phá vùng ven biển. Trong các nghiên cứu của các học giả phương Tây thì người Chăm giỏi nghề đi biển1 và trong sự giao lưu, tiếp biến văn hóa người Việt tiếp thu nhiều thứ trong đó tiếp thu cả tính cách “ăn sóng nói gió” này. Đặc biệt, trong “Dư Địa chí” của Nguyễn Trãi có câu khi đề cập đến vùng Thuận Hóa: “Dân vùng này nhiễm tục cũ của người Chiêm, tính tình hung hãn, quen khổ sở”2 (Ý này thực ra chưa nhiều người đề cập đến nhưng ta có thể xem đây như một ý kiến quan trọng cần xét đến nếu muốn chạm đến cái gì lớn lao hơn).
Có lẽ ngay bản thân những người nêu lên các nguyên nhân giả định này cũng cảm thấy có gì đó không ổn, nói thì nói vậy chứ ai cũng biết Quảng Nam chưa phải là nơi có môi trường khí hậu khắc nghiệt nhất, nếu phải bầu chọn thì có lẽ Quảng Trị, Quảng Bình mới là nơi có môi trường sống khó khăn nhất; thế nhưng ta lại thấy đó lại là nơi lạc quan nhất nước, khôi hài nhất nước với chuyện trạng Vĩnh Hoàng, chẳng hạn. Và thực tế tính cách người Quảng Trị, Quảng Bình là khá vui nhộn, nhẹ nhõm.
Còn nếu như đây là cá tính của những tội nhân lưu đày từ năm, sáu trăm năm trước thì bản thân quê hương họ vùng Thanh Nghệ, nơi tạo nên những tính cách đó mới là nơi lưu giữ sự say gắt hoặc hay cãi chứ? Và nữa, những nơi lưu giữ tội nhân lưu đày, hoặc tập hợp dân tứ chiến trong lịch sử như vùng đất phương Nam hoặc miền Tây Nam bộ sao lại không có tính cách này?
Nếu đây là sự kế thừa tính cách của người Chăm thì cớ sao vùng Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên lại không nổi bật tính hay cãi này trong khi các vùng đất này mới chính là nơi người Chàm sinh sống và chuyển sang Việt muộn hơn rất nhiều so với Quảng Nam?
Từ góc nhìn phân kỳ lịch sử chúng ta hiểu cần phải nhìn vấn đề ngay trong cái thời gian đằng đẵng 500 năm ấy. Đã thực sự đã có ngót 500 năm hai tộc người Chăm - Việt sống cạnh nhau, tôn trọng, hòa hiếu hay không tùy theo từng thời nhưng chắc chắc rằng trong suốt 500 năm đó, bất cứ tộc người nào buông lỏng sự giữ gìn bản sắc của mình đều sẽ bị tiêu vong.
Có nhiều bằng chứng cho biết đến năm 1.802 (khi Gia Long lên ngôi) ở Đà Nẵng Quảng Nam vẫn còn rất nhiều những làng Chàm sinh sống, thậm chí họ vẫn bảo lưu được giọng nói, y phục của mình mặc dù đã mất chủ quyền từ 500 năm trước. Điều đó có nghĩa là họ, người Chàm, đã ý thức về bản sắc văn hóa của mình và họ quyết bảo lưu, giữ gìn nó. Hãy thử hình dung họ bảo lưu bằng cách gì nếu đó không phải là thái độ phê phán gay gắt những gì khác mình? Những khảo sát ban đầu cho thấy suốt một thời gian dài các làng Chăm - Việt ấy đã cài da báo, sống xen kẽ nhau, làng này cách làng kia một cánh đồng, một con bàu, hay thậm chí một con đường làng chỉ lọt chiết xe bò! Có nghĩa là mở mắt ra đồng họ đã chạm nhau; hai thửa ruộng chỉ cách nhau một con đường hay bờ ruộng nhỏ.. có nghĩa là sự va chạm là dai dẳng trong suốt thời gian hơn nửa thiên niên kỷ ấy.
Ai cũng như phải cố trung thành với niềm tin của mình, cố khẳng định mình đúng, có sai phè ra cũng phải cãi cố cho được là mình đúng. Đây không phải chỉ là tính bảo thủ mà là sự sống còn của bản sắc văn hóa, sống còn hay diệt vong của một dân tộc! Và phải chăng chính nhờ thế mà họ đã bảo lưu được bản sắc văn hóa của mình suốt 500 năm? Đến tận năm 1802, khi Gia Long lên ngôi, với những thiết chế văn hóa phong kiến mạnh mẽ, văn minh phong kiến Việt độc tôn, đẩy văn hóa Champa thành sự xa lạ, nhất là dưới thời Minh Mạng, sự xung đột này mới chịu mất đi với sự ưu tiên vượt trội của văn hóa Việt. Thế nhưng tính hay cãi thì đã nhiễm vào máu mất rồi!
Nhưng mọi chuyện hình như không phải chỉ có thế, nếu chỉ có thế thì giả định này xét cho cùng cũng giống như các giả định trên, không thể kiểm chứng một cách khoa học được. Và nếu được phản biện, liệu cái tính hay cãi do xung đột văn hóa có tiếp tục được duy trì khi chí ít từ 1802 sự xung đột này không còn nữa? 200 năm là hơn 8 thế hệ không còn phải tranh cãi hơn thua văn hóa nữa thì cơ sở nào để sự tranh cãi được nuôi dưỡng hết thế hệ này đến thế hệ khác?
Câu hỏi này đã dẫn đến một giả định khác, chúng tôi đồ chừng dường như chính ngay trong giọng nói, cách biểu đạt của phương ngữ Quảng Nam đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên tính cách người Quảng. Thế nhưng giả định này thật khó tin, nó hoàn toàn chưa từng có một tiền lệ nào để có thể đặt niềm tin ngoại trừ những nhận xét vui trong trà dư tửu hậu, hoàn toàn không có một cơ sở khoa học nào, như: Tiếng Pháp là để nói với người yêu, tiếng Anh là để hành chính, tiếng Đức để nói với kẻ thù; hoặc: Giọng Bắc để nói chính trị, Giọng Nam để làm ăn vì xởi lởi, giọng Huế nói với người yêu, giọng Quảng Nam để cãi, hay làm luật sư v.v...
Nhiều lần về vùng quê, tiếp xúc với những bà mẹ bà chị, có người cả đời chưa ra khỏi làng, lặng im nghe họ nói, và trong một lúc chúng tôi chợt nhận ra họ sử dụng một lượng vốn từ vựng nghèo nàn, thiếu hụt một cách trầm trọng!
Không kể số danh từ vật nào tên nấy, không thiếu; nhưng với tính từ, trạng từ, nhất là số từ biểu lộ tình cảm người Quảng Nam thiếu một cách không thể tưởng tượng được. Những câu người Bắc, người khu Bốn, Quảng Trị Huế diễn đạt một cách đơn giản, dễ dàng, sắc thái biểu cảm sinh động như: Điêu; quá đáng; tinh tướng; lấp lánh; hão; háo; vẽ chuyện; ra phết, đanh đá... thì người Quảng Nam hoàn toàn không biết đến những từ này! Và xem một người Quảng Nam diễn đạt vất vả một chuyện gì đó ta hiểu họ đã phải thay sự diễn đạt đó bằng những câu khái quát chung như: “Cái này cái nọ”, “nói chung là”,... được xuất hiện với tầng số khá phổ biến, trong khi người miền khác lại không dùng đến.
Đây không còn câu trả lời nào khác ngoài hiện tượng ngôn ngữ đã được nhiều nhà ngôn ngữ khẳng định: Một cộng đồng người đã từ bỏ tiếng nói mẹ đẻ để nói một ngôn ngữ khác. Ở đây, đó chính là người Chàm đã từ bỏ tiếng Chàm để nói tiếng Việt!
Nhưng vấn đề vốn từ vựng người Quảng ảnh hưởng thế nào đến tính cách của họ?
Nhiều người nhận xét người Quảng Nam “ăn cục nói hòn”, “nghĩ sao nói vậy”, ghét kẻ “mồm miệng đỡ chân tay” “đĩ miệng”, “ba voi không được bát nước xáo”, tính tình bộc trực, “nói thẳng ruột ngựa”... thế nhưng tại sao lại “ăn cục nói hòn” thì hầu như chưa ai chạm đến? Theo chúng tôi, đó chính là vì sự thiếu vốn từ trong diễn đạt đã khiến sự diễn đạt trở thành “ăn cục nói hòn”!
Bìa cuốn sách được tái bản lần thứ 2 sau khi đoạt giải thưởng Sách Hay |
Chúng ta thử đọc một vài bài thơ, vè do người Quảng Nam viết để cảm nhận mức độ nào đó về vốn từ họ sử dụng cũng như khả năng tìm sự diễn đạt thay thế là như thế nào.
Một bài về nghề dệt tằm tơ:
Làng ta ươm dệt tơ tằm
Tay thoi dịu nhút đũa tranh sợ vàng
Vải ta chẳng giống láng giềng
Khổ tuy hẹp tré nhưng mình mịn thanh
Lụa mỡ gà, vải Hà Đông
Đông hàn ấm hiểm, hè nồng mát ghê
Tuýt-so chỉ đánh hết chê
Đóng bộ đồ lớn bắt mê bắt thèm
Sa-tanh, hạnh phúc đệm bông
Mặc vô mát rượi anh hoanh hơn nàng
Trơn lu láng cóng tay rờ
Gái trai thêm ngộ, thêm gồ, thêm ngon.
Một bài khác, không sử dụng phương ngữ hơi cường điệu như trên mà là một bài huê tình, nghĩa các trạng thái tâm lý, tình cảm là khá tinh tế, nhưng đọc bài thơ ta chỉ thấy những khái niệm được mô tả bằng những con chữ tối thiểu, những so sánh biểu dụ được sử dụng tối đa nhằm thay thế cho sự mô tả nội tâm khá là nhạy cảm của người phụ nữ lúc xa người mình thương:
Giếng sâu lấp lại sao đầy
Dẫu thương cho mấy hồi nầy cũng xa
Đêm đông mờ mịt sương sa
Tay choàng qua cổ bậu, khóc òa như mưa
Thiếp với mình tình cũ nghĩa xưa
Dầu tối như mực cũng đưa nhau về
Bên chàng chiếu trải gối kề
Thương chưa nói thiệt mình về kẻo khuya
Dẫu mà phụ mẫu phân chia
Đừng rời mới lịch, đừng lìa mới xinh
Nghiêng tai hỏi nhỏ chút tình
Còn thương như cũ hay mình hết thương?
Chừng nào con ngựa rời cương
Thì đây thiếp mới hết thương chút tình...
Đây quả thực là một ví dụ sinh động về tính cách “có chi nói thẳng”, “ăn cục nói hòn” “nghĩ sao nói vậy” không thích vòng vo, đong đưa, bóng gió. “Thương chưa nói thiệt mình về kẻo khuya”. Nếu chuyển sang ngôn ngữ đối thoại hằng ngày thì sẽ là: “Thương không nói trớt để tui về kẻo khuya!”. Và nữa: “Nghiêng tai hỏi nhỏ chút tình, còn thương như cũ hay mình hết thương”. Vâng, lòng dạ em vậy, bụng em nghĩ vậy, em hỏi thẳng vậy. Nếu đây là một người con gái Bắc Bộ, con gái Huế thì họ sẽ nói sao?
Phải chăng chính cái lục cục lòn hòn, chính sự thô ráp tối đa trong biểu cảm của những người mẹ như thế này đã truyền lại cho con cái họ sự bộc trực trong diễn đạt, ngắn gọn chính xác và tối giản nhất trong giao tiếp, lại được nuôi dưỡng trong cái môi trường xung đột văn hóa kéo dài đã khiến hình thành nên tính cách người Quảng Nam? Và từ đó, đi đến tính cách hay cãi có lẽ là khoảng cách không xa nếu không nói chính là một.
*
Cũng như các giả định khác, có thể đúng có thể sai, nhưng chí ít giả định này là có thể chứng minh được nếu ta có được công trình về vốn từ người Quảng và công cụ tâm lý tham gia. Phần xây dựng công cụ đã cố gắng đưa ra một cái nhìn về vấn đề vốn từ của người Quảng, nó cần một công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn thế nhưng cũng tạm đủ cho ta có một cái nhìn không thể bỏ qua trong việc tìm hiểu bản sắc người Quảng Nam. Chí ít thì hướng đi này là có thể chứng minh được, kiểm chứng được và vì thế nó là khoa học hơn các giả định khác về tính cách người Quảng, như cho là do nước uống, do tính cách dân tội đồ lưu đày, do đầu sóng ngọn gió cần phải nói to!
Và một lần nữa yếu tố “người Chàm ở lại” đã để một dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn người Quảng Nam hôm nay. Sự thừa nhận điều này không thuộc về khoa học. Cho dù bây giờ ta làm được xét nghiệm ADN với từng người Quảng Nam và kết luận nguồn gốc Chămpa đậm đặc trong mỗi người thì sự thừa nhận nguồn cội cũng thuộc về quyết định của từng người chứ không nằm ở trong cái phiếu xét nghiệm ADN ấy.
Nhà văn, nhà biên khảo Hồ Trung Tú |
Và điều cuối cùng muốn nói, chỉ khi hiểu rõ nguyên nhây gây nên bệnh thì mới có thể chữa dứt được bệnh, chỉ khi hiểu rõ nguồn cơn của tính cách, tuy nhiều tích cực nhưng cũng không ít tiêu cực trong văn hóa giao tiếp, thì ta mới có thể cải thiện được cho lớp trẻ các thế hệ tương lai. Khi nói đến việc một người Quảng Nam hòa nhập trong giao tiếp với người vùng miền khác nhiều người chỉ nghĩ đến vấn đề ngữ âm hay phát âm cố cho chuẩn mà không hay rằng vốn từ mới là điều quan trọng. Chúng tôi tin với số lượng vốn từ phong phú hơn, diễn đạt trôi chảy hơn, mẫu câu giao tiếp nhiều hơn thì tính cách người Quảng sẽ được cải thiện hơn, chí ít là trong diễn đạt, điều mà lối sống hiện đại đòi hỏi ngày càng cao.
1 Vợ cả Chế Mân là một công chúa Java, điều đó cho biết mối quan hệ biển đảo của Chiêm Thành là vô cùng mật thiết, điều Đại Việt không hề có trong suốt lịch sử của mình. Sức mạnh thủy binh của Chiêm Thành mạnh đến mức các học giả phương Tây như Massepero hoặc Philippe Papin phải gọi họ là những hải tặc đáng gờm.
2 Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, trang 235.
Nguồn thông tin được HOCHOIMOINGAY.com sưu tầm từ Internet