Trong bài viết trước, chúng tôi đã đề cập đến các yếu tố quyết định đến chất lượng của một bức hình như độ nhạy sáng, khẩu độ... Bài viết lần này sẽ nói thêm về các yếu tố khác, những thông số kỹ thuật được các nhà sản xuất máy ảnh nhắc đến và ảnh hưởng của chúng tới quá trình chụp và chất lượng ảnh.
Độ nét của ống kính
Các bạn có thể thiết lập các tùy chỉnh thông số trên máy ảnh dễ dàng nhưng chất lượng hình ảnh sẽ phụ thuộc rất nhiều vào ống kính mà bạn sử dụng. Không phải ống kính nào cũng đủ tốt để thu nhận hình ảnh sắc nét và chi tiết: hình ảnh trung thực, màu sắc tách biệt rõ ràng đến từng điểm ảnh.
Thật đáng tiếc là hiện nay chẳng có một thông số kỹ thuật nào để bạn nhìn vào có thể xác định được chất lượng của ống kính. Vì vậy cách đơn giản nhất là hãy đến cửa hàng và thử trực tiếp trước khi quyết định mua. Một số yếu tố khác mà các nhà sản xuất thường làm “hoa mắt” người dùng khi hiệu suất của nó không tốt như thế. Ví dụ như những ống kính có khẩu lớn f/1.4 nhưng thực sự nó chỉ dùng tốt khi ở khẩu f/1.8. Tương tự như vậy, ở những ống kính zoom bạn sẽ gặp phải tình trạng méo hình hay quang sai khi ở góc rộng (16mm trở xuống) hay tele (135mm trở lên). Đương nhiên những lỗi này thì có thể khắc phục được bằng phần mềm tự động.
“Ma trận” ống kính làm hoa mắt ngay cả những người chuyên nghiệp.
Có một vài nguyên tắc có thể giúp bạn đưa ra những lựa chọn đúng. Đầu tiên là vật liệu xây dựng nên ống kính. Chẳng hạn dòng L series của Canon được xây dựng với chất lượng tốt và bền bỉ ngay từ vẻ ngoài. Nếu nhìn vào các ống kit đi kèm với máy ảnh DSLR hay ống gắn liền trên thân máy khác bạn sẽ thấy nó được làm từ nhựa cả bên trong và bên ngoài. Nói thế không có nghĩa là tất cả các ống kính vỏ kim loại sẽ có chất lượng quang học tốt hơn ống kính vỏ nhựa nhưng đó là quy luật chung và ít nhất là ống kính với chất liệu vỏ tốt sẽ bền bỉ hơn.
Ống kính một tiêu cự và ống zoom.
Điểm thứ 2 cần ghi nhớ là ống kính không có chức năng zoom, ống kính một tiêu cự (prime lens) thường có chất lượng tốt hơn ống kính tiêu cự thay đổi (ống zoom) nhờ thiết kế đơn giản. Để có chất lượng ảnh tốt nhất, bạn nên chọn mua máy ảnh có thể thay đổi ống kính và chọn cho mình một vài ống kính ở các tiêu cự phổ biến nhất: 24mm, 50mm, 80mm, 100mm và 200mm. Đương nhiên với việc mang vác cả balo thiết bị như trên sẽ chẳng dễ dàng gì cho một buổi dã ngoại nhưng như đã đề cập ngay từ bài 1: nhiếp ảnh luôn phải hi sinh vì điều gì cũng có giá trị của nó.
Tự động lấy nét
Một khái niệm được đề cập đến ở đây là “shutter lag”. Có thể tạm hiểu shutter lag là độ trễ từ khi ta bấm nút chụp cho đến khi hình ảnh được thật sự ghi nhận tại cảm biến. Rất nhiều ý kiến cho rằng độ trễ nói trên là do khả năng bắt nét kém của thiết bị nhưng đó không phải là tất cả. Độ trễ mà ta ít để ý đến chính là trễ do hệ thần kinh của chúng ta từ khi nhìn thấy cảnh vật đến lúc bấm nút chụp. Đương nhiên máy cần thời gian để tính toán, thiết lập thông số và lấy nét nhưng trong trường hợp bạn quan tâm đến khả năng lấy nét nhanh và chính xác thì có thể sử dụng tính năng chụp liên tiếp. Thâm chí mới đây Samsung đã tiên phong trong khả năng này bằng cách tích hợp tính năng “Best Shot” cho phép chụp ảnh liên tiếp sau đó chọn ra bức hình tốt nhất hoàn toàn tự động.
Hệ thống điểm lấy nét
Tất cả các nhà sản xuất điện thoại và máy ảnh đang cố gắng né tránh vấn đề về tốc độ lấy nét nhưng giải pháp duy nhất hiện nay là tăng số lượng điểm lấy nét kết hợp một motor lấy nét nhanh hơn cho các ống kính. Độ chính xác và tốc độ lấy nét tự động là một trong những yếu tố quyết định đến giá thành của máy ảnh. Chẳng hạn chiếc Canon EOS 1D-X có tới 61 điểm lấy nét trong đó 41 điểm lấy nét chính xác xếp theo hình chữ thập. Việc sử dụng lấy nét lai (lấy nét theo pha và lấy nét theo tương phản) đã giúp cải thiện tốc độ lấy nét. Việc có nhiều điểm lấy nét hơn cũng giúp bạn dễ dàng bố trí bố cục cho bức ảnh thay vì phải lựa chọn tư thế chụp khác.
Kích cỡ cảm biến ảnh
Một quy tắc trong nhiếp ảnh là việc có cảm biến lớn hơn đồng nghĩa với việc hình ảnh tốt hơn. Đó chỉ là một quy tắc tổng quan nhưng nó dựa trên các cơ sở sau: cảm biến lớn đồng nghĩa với việc diện tích bề mặt cảm quang lớn tương đương với việc ánh sáng được ghi nhận nhiều hơn đồng thời cùng một thời điểm. Có thể lấy một vài bằng chứng như chiếc Nikon 1 series đã làm người dùng thất vọng bởi cảm biến kích thước CX của nó hoặc với Nokia Lumia 1020 là (một trong những) chiếc smartphone chụp ảnh đẹp nhất trên thị trường là nhờ vào cảm biến 1/1.5-inch của nó.
Những chiếc máy ảnh Full-Frame luôn là lựa chọn của các nhiếp ảnh gia.
Kích thước cảm biến càng lớn thì số điểm ảnh càng lớn và có thể thu nhận nhiều ánh sáng hơn mà không cần một tín hiệu khuếch đại. Do vậy các điểm ảnh lớn hơn sẽ có chất lượng sắc nét hơn, mượt mà hơn và khử nhiễu tốt hơn ở ISO cao.
Những máy ảnh DSLR hoặc APS-C (hay cảm biến DX) chuyên nghiệp có bộ cảm biến full-frame là kích thước tiêu chuẩn tương đương với những phim 35mm. Nhờ đó hình ảnh của máy này cho chất lượng hoàn hảo, sắc nét được những người có nhu cầu cao sử dụng. Trong khi đó những máy ảnh du lịch chỉ dùng cảm biến kích thước nhỏ và các nhà sản xuất thường chẳng bao giờ đề cập đến kích thước cảm biến trên sản phẩm của mình.
Megapixel (số “chấm”)
Một trong những yếu tố mà không ít người mới sử dụng máy ảnh quan tâm khi chọn mua là chiếc máy này bao nhiêu megapixel (MP). Họ cứ mặc định rằng máy ảnh 16MP sẽ cho chất lượng tốt hơn máy 12MP nhưng điều này không hoàn toàn đúng.
Đầu tiên cái mà gọi là MP chính là độ phân giải của ảnh. Nó chỉ lượng thông tin được chứa đựng trong một tập tin ảnh kỹ thuật số thể hiện được trên các thiết bị hoặc khi in ra và thông thường tính bằng pixel. Như vậy việc pixel càng cao thì ảnh càng chứa đựng nhiều thông tin hơn và chi tiết hơn nhưng việc bức ảnh có độ phân giải rất cao có thể chứa nhiều thông tin hơn mức độ mắt người có thể nhận biết.
Megapixel luôn là thông số kỹ thuật “móc túi” người dùng.
Trở lại với định nghĩa về MegaPixel. Đây là đơn vị tính độ phân giải của thiết bị quang học. Mỗi MegaPixel tương đương 1 triệu pixel. Thực tế con số này đã được các nhà sản xuất làm tròn từ con số kỹ thuật là 1.048.676 pixel. Vì thế nếu bạn đọc được thông tin về máy ảnh này có bao nhiêu MP thì đó chỉ là cách làm tròn của nhà sản xuất, hơn thế người ta còn hay làm tròn theo khung hình, ví dụ 1600 x 1200 ~ 1.9 MP được gọi là máy ảnh 2MP.
Hầu hết máy in ảnh tốt nhất tại 200 hoặc 300 PPI (pixel trên mỗi inch). Như vậy với máy ảnh kỹ thuật số có lớn hơn 6MP đều đáp ứng tốt các yêu cầu để in một bức ảnh 8” x 10”. Người ta cũng nhận thấy rằng khi in 2 bức hình từ ảnh 4MP và 6MP thì mắt người không nhận thấy có quá nhiều sự khác biệt. Với các máy ảnh hiện nay đều có độ phân giải từ 12MP thậm chí là camera trên các smartphone đều từ 5MP thì các nhu cầu sử dụng đều đáp ứng tốt.
Mục đích phân tích ở đây là để bạn nhận ra một điều: số MP giờ đây chỉ có tính chất thương mại khi các nhà sản xuất tăng “số chấm” để tăng giá thành. Với nhu cầu của bạn chủ yếu là lưu giữ khoảnh khắc, chia sẻ ảnh với bạn bè trên mạng xã hội thì chỉ 1MP cũng là đủ. Nếu bạn muốn chụp ảnh để in khổ lớn như biển quảng cáo hay những bức tranh hoành tráng thì lúc đó hãy cân nhắc đến độ phân giải. Những thông số kỹ thuật khác quan trọng hơn nhiều.
Ống ngắm/Màn hình LCD
Ở đây chúng ta đề cập đến việc ngắm ảnh trước khi chụp một bức hình.
Đầu tiên là ống ngắm quang học (OVF - Optical ViewFinder). Trên máy ảnh du lịch còn được gọi là “máy ảnh ống ngắm thẳng” bởi cấu trúc đơn giản nhất. Hình ảnh trong ống ngắm khác hẳn so với vị trí khi chụp bởi do ống ngắm quang học nằm khác vị trí với ống kính. Tuy nhiên trên các máy ảnh SLR thì hình ảnh bạn nhìn thấy chính là hình ảnh sẽ ghi nhận vào cảm biến. Kính ngắm quang học có ưu điểm là tiết kiệm pin, cho hình ảnh chính xác (trên máy SLR) và quan trọng là giảm độ trễ khi chụp và giảm rung do tư thế cầm ngắm.
Lựa chọn khác để ngắm là thông qua màn hình LCD. Trên các máy du lịch và DSLR thì màn hình LCD là điều không thể thiếu. Do đặc điểm của hệ thấu kính bên trong nên thời gian đầu máy ảnh DSLR không có tính năng ngắm chụp “live preview” nhưng nhược điểm này đã được khắc phục. Màn hình LCD sẽ cho phép bạn quan sát hình ảnh trực quan cùng các thông số kỹ thuật nhưng sẽ bị giới hạn bởi chất lượng màn hình. Các bạn sẽ thấy các nhà sản xuất nhắc đến số điểm ảnh trên màn LCD của máy ảnh với các con số quen thuộc như: 230.000, 460.000, 920.000 hay trên các thiết bị cao cấp là 1.040.000 điểm ảnh. Con số này càng cao đồng nghĩa với việc màn hình hiển thị càng rõ nét nhưng chất lượng màn hình không phải lúc nào cũng đồng đều do các công nghệ sản xuất màn hình khác nhau nổi bật trong đó là màn hình OLED đang được Samsung và Sony trang bị trên các mẫu máy mới nhất. Gần đây các nhà sản xuất đã tích hợp màn hình cảm ứng lên máy ảnh với tính năng chạm để lấy nét mang lại những trải nghiệm mới. Việc sử dụng màn hình LCD còn làm giảm tốc độ chụp (trên máy SLR), bị rung trong khi chụp (do tư thế cầm) và chắc chắn sẽ tiêu tốn khá nhiều điện năng.
Một lựa chọn khác là sử dụng ống ngắm điện tử (EVF - Electronic ViewFinder). Hình ảnh sẽ đi vào một cảm biến phụ, đưa lên màn hình OLED nhỏ có độ phân giải cao. Như vậy có thể nói EVF là sự tổ hợp của OVF và LCD do đó nó mang những ưu điểm và nhược điểm của 2 công nghệ nói trên. EVF cho độ bao phủ cao, hình ảnh nhìn thấy là đã qua xử lý nên có thể nhìn trong tối. Tư thế ngắm EVF cũng tương tự tư thế ngắm qua OVF.
Trong phần 3 và cũng là phần kết, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu thêm một số khái niệm khác như khả năng quay phim, hệ thống ổn định ảnh, zoom...
Nguồn thông tin được HOCHOIMOINGAY.com sưu tầm từ Internet