Ảnh minh họa
Các bề mặt này không hoàn toàn nhẵn bóng như chúng ta nhìn thấy bằng mắt thường mà lồi lõm. Những chỗ lồi khi va chạm vào nhau sẽ bị nóng lên và có thể bị hàn dính vào nhau và gảy vỡ. Như vậy ma sát làm máy nóng lên, làm cản trở chuyển động và gây ra mài mòn dẫn đến hư hỏng máy móc.
Tùy theo tải trọng, vận tốc giữa hai bề mặt và tính chất của chất bôi trơn mà các chế độ bôi trơn sau sẽ được hình thành :
– Bôi trơn thủy động : xảy ra khi tải trọng nhỏ và vận tốc lớn.
Dầu được rút vào giữa hai bề mặt và chảy thành lớp, bề dầy lớp dầu lớn hơn độ lồi lõm của các bề mặt. Chế độ bôi trơn này là hiệu quả nhất vì giảm tối đa ma sát giữa hai bề mặt kim loại, chỉ còn ma sát nhớt của các lớp dầu. Máy móc trong các điều kiện làm việc bình thường được tính toán để bôi trơn ở chế độ này.
– Bôi trơn màng mỏng : là trường hợp ngược lại của bôi trơn thủy động. Lúc này các bề mặt bị ép sát vào nhau do tải trọng lớn mà vận tốc lại rất nhỏ, chính là những lúc máy móc khởi động hoặc xuất hiện những tải trọng va chạm.
Lớp dầu sẽ không đủ dầy để ngăn cách các bề mặt, do đó ma sát và mài mòn rất lớn. Đây là chế độ bôi trơn khắc nghiệt và đòi hỏi dầu nhớt phải có các phụ gia chống mài mòn hiệu quả.
– Bôi trơn hỗn hợp : là trung gian giữa hai chế độ trên. Bề dầy lớp dầu tương đương với độ lồi lõm cùa hai bề mặt nên không ngăn cách chúng hoàn toàn.
– Bôi trơn thủy động đàn hồi : là trường hợp đặc biệt khi áp suất giữa hai bề mặt rất lớn, ví dụ các chỗ tiếp xúc giữa các bánh răng, mấu cam.
Áp suất cực cao (cực áp) làm cho lớp dầu “rắn lại”, khiến cho các bề mặt bị biến dạng. Các biến dạng này nếu quá lớn sẽ làm mòn rỗ các bề mặt. Dầu nhớt cần có phụ gia cực áp để bảo vệ cho các bề mặt trong điều kiện này.
Trong khi máy móc làm việc thì vận tốc, tải trọng và nhiệt độ có thể thay đổi nên các chế độ bôi trơn nói trên sẽ thay đổi tương ứng như mô tả trong giản đồ Stribeck bên dưới.
BLXC- Giải thích biểu đồ cuối cùng: Tốc độ máy ~ tua máy
Tua máy phải đủ cao để tới ngưỡng masat thủy động => ma sát ít, máy móc ít hao mòn.
Vậy tua máy như thế nào là đủ? Hên xui. Tua máy có cao quá 1 tí cũng không sao, vẫn nằm trong khoảng masat thủy động là ok. Chớ để tua máy thấp hoặc tải trọng nặng quá làm các chi tiết máy ép lên nhau, tạo thành masat màng rất hại máy.
Nói thêm về ma sát màng. Trong một số chi tiết máy chịu tải trọng lớn như các nhông truyền động thì ma sát màng là không tránh khỏi. Vì vậy phải dùng các loại nhớt tiêu chuẩn cao để màng kéo chất lượng hơn, tránh làm hư hỏng. => nhớt chuẩn SG trở lên cho xe đời mới là ok.
Trong biểu đồ trên thì còn nói tới độ nhớt. Độ nhớt càng cao thì đa số các chi tiết máy đều thích => tạo màng dầu dày hơn => tăng độ ma sát thủy động. (Đổ nhớt 50 vô sẽ thấy máy êm hơn)
Tuy nhiên với một số chi tiết máy chịu tải cao như nhông hoặc cam cò thì nhớt đặc làm cho nó dễ bị rỗ bề mặt (masat thủy động đàn hồi).
Vì thế phương án tối ưu nhất cho xe đời mới vẫn là nhớt 40 và cấp tối thiểu là SG. (ví dụ 20w-40, 15w-40 hoặc 10w-40)
Nguồn thông tin được HOCHOIMOINGAY.com sưu tầm từ Internet