* Đặc điểm nhận dạng :
- Âm thanh : thường thì dòng xe này sử dụng pô bụng nên thường nghe tiếng vè vè như ruồi .
- Hình ảnh : Còn nếu không lắp pô bụng thì chỉ còn cách nhìn lốc máy ^^
( em cũng chưa tiếp xúc với 2 kỳ nhiều nên ko rành lắm , bác nào có cách phân biệt thì góp ý em với ^^ )
* Một số loại xe 2 kỳ thường gặp :
- từ thời xưa như : Mobilette, Solex, Motobecane... của người Pháp mang sang, Vespa của Piaggio (Italia) sau đó là những chiếc xe Con Thỏ (Восход), Minsk (Минск) của Liên Xô cũ, Babetta, Jawa của Tiệp Khắc, Simson, MZ của Cộng hoà dân chủ Đức, . . .
- hay như các loại xe máy như nova , xipo , ya z ,satria , aprilia rs 125 . . .
- và 1 số loại xe phân khối lớn như NSR 250/500 , suzuki 250
-Cào cào cũng thường được trang bị động cơ 2 kì như KTM 250sx , yâmha yz 250 , . . . .
đều là những chiếc xe máy lắp động cơ hai kỳ .
* Nguyên lý hoạt động :
- Thì 1: Tạo công và nén trước
Pít tông bắt đầu sắp vượt qua điểm chết trên. Bộ phận đánh lửa đốt hỗn hợp trong buồng đốt phía trên pít tông, nhiệt độ tăng dẫn đến áp suất trong buồng đốt tăng. Pít tông đi xuống và qua đó tạo ra công cơ học.
Trong phần không gian ở phía dưới pít tông, khí mới vừa được hút vào sẽ bị nén lại bởi chuyển động đi xuống của pít tông.
Trong giai đoạn cuối khi pít tông đi xuống, lỗ thải khí và ống dẫn khí được mở ra. Hỗn hợp khí mới đang bị nén dưới áp suất chuyển động từ buồng nén dưới pít tông qua ống dẫn khí đi vào xy lanh đẩy khí thải qua lỗ thải khí ra ngoài.
- Thì 2: Nén và hút
Trong khi pít tông đi lên, lỗ thải khí và ngay sau đó là ống dẫn khí được đóng lại.
Trong lúc pít tông tiếp tục chuyển động đi lên, hỗn hợp nhiên liệu và không khí trong xy lanh tiếp tục bị nén lại và ngay trước khi pít tông đạt đến điểm chết trên thì được đốt cháy.
Trong buồng nén khí trước ở phía dưới pít tông khí mới được hút vào qua ống dẫn.
Theo lý thuyết: một động cơ hai thì là có hiệu suất riêng (hiệu suất trên dung tích)
cao hơn một động cơ bốn thì
* Ưu điểm trên lý thuyết của một động cơ hai thì là có hiệu suất riêng (hiệu suất trên dung tích) cao hơn một động cơ bốn thì, vì mỗi một vòng quay của trục khuỷu là một thì tạo công (ở động cơ bốn thì, hai vòng quay của trục khuỷu tương ứng với một thì tạo công). Trên thực tế động cơ bốn thì đã rút ngắn khoảng cách này rất nhiều nhờ vào những cải tiến gần đây (thí dụ như nhờ vào các hệ thống phun cải tiến) nên các mô tô hay xe máy có động cơ bốn thì không còn chạy chậm hay có gia tốc chậm hơn hơn loại hai thì nữa. Vận tốc tối đa của pít tông chậm hơn so với động cơ bốn thì vì có các ống dẫn khí trong xy lanh, điều này cũng hạn chế hiệu suất của động cơ hai thì.
Cách chế tạo đơn giản hơn của động cơ hai thì mang lại nhiểu ưu điểm như dễ bảo trì hơn và có khối lượng di động (trục khuỷu, pít tông,...) nhỏ hơn rất nhiều so với một động cơ bốn thì tương tự. Hiệu ứng tốt của việc này là mang lại một xung lượng góc nhỏ hơn.
* Khuyết điểm đặc biệt của động cơ hai thì là thất thoát nhiên liệu hình thành qua sự pha trộn một phần giữa hỗn hợp khí mới và khí thải, vì thế một phần của hỗn hợp nhiên liệu và không khí thoát ra ngoài theo ống thoát khí gây ô nhiễm môi trường.
Khuyết điểm đặc biệt của động cơ hai thì là thất thoát nhiên liệu
hình thành qua sự pha trộn một phần giữa hỗn hợp khí mới và khí thải
Nguồn thông tin được HOCHOIMOINGAY.com sưu tầm từ Internet