Trong số các hãng xe của Nhật Bản, doanh số của Toyota tăng 26,1% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 164.898 chiếc, doanh số của Honda tăng 45,3%, đạt 116.944 chiếc và Nissan tăng 16,2%, đạt 98.341 chiếc.
Hãng sản xuất ôtô GM của Mỹ vẫn duy trì vị trí dẫn đầu tại thị trường Mỹ trong tháng Bảy với thị phần là 17,4% mặc dù doanh số xe bán ra của hãng này giảm 6,4% xuống còn 201.237 chiếc, tiếp sau đó là hãng Ford khi doanh số của hãng xe cũng giảm 3,8%, còn 173.482 chiếc. Một trong ba ông lớn của Mỹ khác là hãng Chrysler lại có mức tăng trưởng doanh số 12,3%, đạt 122.379 chiếc.
Trong khi đó, theo Hiệp hội các đại lý xe ôtô Nhật Bản, doanh số xe mới bán ra tại thị trường này, bao gồm cả xe cỡ nhỏ, tăng 36,1% trong tháng Bảy so với cùng kỳ năm 2011, đạt 328.543 chiếc. Đây là tháng thứ 10 liên tiếp, doanh số xe bán ra tại thị trường Nhật Bản tăng.
Doanh số xe du lịch bán ra ở Nhật Bản tăng 37,3%, đạt 295.581 chiếc trong khi doanh số xe tải tăng 27,3%, đạt 32.175 chiếc còn doanh số xe buýt lại giảm 15%, còn 787 chiếc. Doanh số xe cỡ nhỏ sử dụng động cơ 660 cc ở Nhật Bản tăng 40,3%, đạt 184.582 chiếc.
Trái ngược với viễn cảnh tươi sáng ở Mỹ và Nhật Bản, doanh số xe mới đăng ký ở Đức, một thước đo nhu cầu quan trọng của một trong những khu vực quan trọng nhất của nền kinh tế lớn nhất châu Âu, lại sụt giảm nghiêm trọng trong tháng Bảy.
Theo cơ quan giám sát xe liên bang Đức, khoảng 248.000 chiếc xe mới được đăng ký trong tháng Bảy, giảm 5% so với cùng kỳ năm ngoái. Thông tin này cho thấy nền kinh tế Đức đang bắt đầu phải chịu một số gánh nặng của cuộc khủng hoảng nợ công thuộc khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu khi mà các thị trường xuất khẩu chính của ngành công nghiệp ôtô Đức bị suy yếu.
Nguồn thông tin được HOCHOIMOINGAY.com sưu tầm từ Internet